Môn Văn khối C được thí sinh đánh giá là khá hóc búa, đặc biệt là câu nghị luận xã hội đầy tính triết lý và rất khó để lấy ví dụ thực tế. Xin giới thiệu hướng dẫn làm bài của tổ Văn trung tâm Bách khoa Aptech.
Câu 1(2đ):
Ý một: Đó là hình ảnh cô gái di-gan phóng khoáng, mạnh mẽ góp cho dòng sông cất lên bản trường ca rừng già. Và hình ảnh người con gái đẹp , người mẹ phù sa để làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, tần tảo của người con gái Huế (1đ)
Ý hai: Hình ảnh ấy nổi bật vẻ đẹp giầu nữ tính của sông Hương và tâm hồn dịu dàng rất Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Khác hẳn với hình ảnh sông Đà qua cách nhìn của Nguyễn Tuân, cho dù cả hai dòng sông đều gắn với thượng nguồn (1đ)
Câu 2(3đ)
Yêu cầu chung: phải có kết cấu của một bài văn dù ngắn (có giới thiệu vấn đề, giải quyết vấn đề, kết thúc vấn đề). Lí lẽ, mạch lạc lập luận chặt chẽ, dẫn chứng phải có sức thuyết phục.
Ý thứ nhất - Giới thiệu vấn đề: xuất phát từ thực tế về “bệnh thành tích” đang là quốc nạn từ nhà trường cho đến ngoài xã hội để nêu vấn đề. (0,5đ)
Ý thứ hai – Giải quyết vấn đề: (1đ)
- Giải thích các khái niệm “kẻ cơ hội”, “người chân chính”, “nôn nóng”,“thành tích”, “kiên nhẫn”, “thành tựu”: “kẻ cơ hội” là kẻ lợi dụng thời cơ để kiếm lợi cho mình (chức vụ, tiền bạc.v.v.), người chân chính là người sống chân thực, đàng hoàng, chính đáng. Thành tích là kết quả mà chỉ căn cứ vào người làm việc báo cáo. Thành tựu là kết quả của quá trình làm việc có thực. Nôn nóng là tìm mọi cách để tạo ra thành tích một cách nhanh nhất, kiên nhẫn chỉ thái độ kiên trì nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn để làm nên thành tựu.
- Kẻ cơ hội nôn nóng tạo ra thành tích bao giờ cũng gắn với mục đích không chính đáng, mục đích xấu, chỉ phục vụ cho quyền lợi của bản thân dẫn đến lừa dối xã hội, nhất là cấp trên. Nguy hại của bệnh thành tích là tạo nên một xã hội ảo, nền kinh tế ảo, làm suy sụp nhân cách (0,5đ)
- Người chân chính là người bao giờ cũng đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích của mình. Họ chính là người làm nên bộ mặt thật, đời sống thật , góp phần xây dựng xã hội từ các thành tựu của họ. Nhưng trước hết họ góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng đạo đức của xã hội. Trong thực tế hiện nay không thiếu những người chân chính nhưng sự quan tâm đến họ không phải nhiều. (0.5đ)
Kết luận:
Phải chống bệnh thành tích, nói không với bệnh thành tích (Trích: Nguyễn Thiện Nhân )
II. Phần riêng
Câu 3a (5đ)
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
· Tác giả: Tác giả Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành (là bút danh của Nguyễn Văn Báu - 1932) có mặt và hoạt động cách mạng ở Tây Nguyên trong 2 cuộc kháng chiến, gần gũi và hiểu biết về cuộc sống, con người nơi đây. Tác phẩm tiêu biểu: Đất nước đứng lên, Rẻo cao, Rừng xà nu,Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đất Quảng…
· Tác phẩm: Viết năm 1965 khi đế quốc Mĩ ào ạt đổ bộ vào miền Nam.
Tác phẩm mang đậm tính sử thi và tinh thần anh hùng cách mạng, ngợi ca những cá nhân anh hùng cùng quá trình đứng dậy kháng chiến của nhân dân Tây Nguyên.
Giải thích vẻ đẹp sử thi của nhân vật:
Là những vẻ đẹp mang khuynh hướng ngợi ca, gắn với chủ nghĩa lãng mạn, hướng tới những con người anh hùng mang phẩm chất của thời đại, đại diện cho cộng đồng rộng lớn.
Vẻ đẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú
- Khẳng định: Tnú là nhân vật mang đậm tinh thần sử thi, mang tính đại diện cho vẻ đẹp, sức mạnh cộng đồng của cả dân làng Xô Man nói chung, của nhân dân Tây Nguyên nói riêng. Câu chuyện về cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc.
- Phẩm chất, tính cách của Tnú - người anh hùng mang tính sử thi
+ Gan gúc, thông minh táo bạo, dũng cảm, trung thực (khi còn nhỏ cùng Mai học bài, vào rừng tiếp tế cho anh Quyết, làm liên lạc…).
+ Lòng trung thành với cách mạng được bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành, khi thành người chiến sĩ cách mạng Tnú càng đấu tranh kiên trì, quyết liệt).
- Số phận, cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho nỗi đau khổ và sự quật cường của nhân dân.
+ Tnú có tuổi thơ vất vả, lớn lên Tnú không cứu được vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn.
+ Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, có thể thấy hình ảnh một Tnú đại diện cho số phận của cộng đồng, trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí. Khi chưa cầm vũ khí, Tnú chỉ có hai bàn tay không thì ngay cả những người thương yêu nhất Tnú cũng không cứu được. Khi chưa cầm vũ khí, làng Xô Man cũng đầy đau thương: Bọn giặc đi lùng như hùm beo, tiếng cười "sằng sặc" của những thằng ác ôn, tiếng gậy sắt nện "hự hự" xuống thân người. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị chết rất thảm…
+ Cuộc sống ngột ngạt dồn nén đau thương, căm thù. Đêm Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay, làng Xụ Man đã nổi dậy "ào ào rung động", "xác mười tên giặc ngổn ngang", tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!"
- Hình tượng Tnú – tiêu biểu cho các thế hệ người Tây Nguyên nối tiếp nhau vùng lên chống Mĩ.
+ Mồ côi, sống nhờ sự chở che, đùm bọc của dân làng.
+ Thay cho thanh niên, người già, tiếp tế cho cán bộ, gan góc, dũng cảm.
+ Là cán bộ cách mạng, đại diện cho Đảng
Các nhân vật khác trong truyện soi chiếu cho cuộc đời của Tnú chính là tài hiện cuộc đời của Tnú đã trải qua và mang tính biểu tượng cho sự nối tiếp thế hệ
- Hình tượng tiêu biểu mang tính sử thi của nhân vật: hình tượng bàn tay Tnú
+ Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành vớ cách mạng.
+ Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại. Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được…..cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.
+ Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người Tnú
Như vậy: Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng
Câu 3b (5đ)
- Đưa hai đoạn thơ vào…
+ Nếu Hàn Mặc Tử tả cảnh thôn Vĩ qua một địa danh cụ thể để gửi tình yêu quê hương.
+ Còn Nguyễn Bính tạo ra một không gian của thôn xóm, làng quê ngụ tâm tình chân chất, giản dị.
Cả hai đoạn thơ đều thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình - tác giả đối với quê hương nhưng được khai thác bằng nét khác nhau đúng với yêu cầu “khoa học là ta, văn học là tôi”. Đều vận dụng bút pháp “tả cảnh, ngụ tình” bằng cách khai thác không lầm lẫn.
Nguồn: Bachkhoa-aptech
a. Giới thiệu hai nhà thơ – hai đoạn thơ:
- Là hai nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (30 – 45), Hàn Mặc
Tử và Nguyễn Bính thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình – tác giả qua thơ bằng
những nét không nhầm lẫn.
- Đưa hai đoạn thơ vào…
b. Khai thác hai đoạn thơ :
- Tìm hiểu những nét chung của hai đoạn thơ
+ Nếu Hàn Mặc Tử tả cảnh thôn Vĩ qua một địa danh cụ thể để gửi tình yêu quê hương.
+ Còn Nguyễn Bính tạo ra một không gian của thôn xóm, làng quê ngụ tâm tình chân chất, giản dị.
- Khai thác cụ thể hai đoạn
+ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử qua bốn dòng thơ đầu “Trích dẫn …..”
* Một dòng đầu: Sự trách móc bằng câu hỏi chỉ để
hỏi (phân tích các chi tiết: địa danh “thôn Vĩ”, hành trình “về chơi”)
* Ba dòng sau: Hình ảnh thôn Vĩ và con người xuất
hiện rất tự nhiên (phân tích hình ảnh hàng cau đặt trong nắng và nắng mới lên
mang nhiều tầng ý nghĩa thể hiện cách cảm nhận của cái tôi - nhà thơ - hình ảnh
“hàng cau”, “vườn ai”, “mặt chữ điền”).
* Cảm nhận: Cái tôi không lầm lẫn của Hàn Mặc Tử viết trong và bằng đau thương của một người mắc bệnh khắc nghiệt nhưng vẫn tạo ra những vần thơ trong sáng, giản dị.
* Cảm nhận: Cái tôi không lầm lẫn của Hàn Mặc Tử viết trong và bằng đau thương của một người mắc bệnh khắc nghiệt nhưng vẫn tạo ra những vần thơ trong sáng, giản dị.
+ Bài “Tương tư” của
Nguyễn Bính qua bốn dòng cuối (Trích dẫn :…)
* Hai dòng đầu: Tạo hình ảnh làng quê Việt Nam với
những nét đơn giản, mộc mạc (phân tích : hai nhân vật “em – anh“ của tình yêu
đôi lứa - Hình ảnh “một giàn giầu – một hàng cau” của làng quê tạo thành một
tình cảm độc đáo của tình yêu quê hương bằng sự đan cài riêng – chung).
* Hai dòng sau: Thể hiện tâm tình của nhân vật trữ tình – tác giả (phân tích hình ảnh : “thôn Đoài – thôn Đông” cùng “cau nhớ giầu không” phản ánh trạng thái xúc cảm phức tạp: nhung nhớ, trông mong, trách móc… hơn hết là khao khát hạnh phúc lứa đôi.
* Cảm nhận:
Tâm tình của Nguyễn Bính về tình yêu đôi lứa gắn liền với hồn quê man
mác, nhẹ nhàng. Và hình ảnh thơ giản dị dễ hiểu xuất phát từ cái tôi – Nguyễn
Bính gắn bó sâu nặng với những nét đẹp văn hóa Việt Nam.* Hai dòng sau: Thể hiện tâm tình của nhân vật trữ tình – tác giả (phân tích hình ảnh : “thôn Đoài – thôn Đông” cùng “cau nhớ giầu không” phản ánh trạng thái xúc cảm phức tạp: nhung nhớ, trông mong, trách móc… hơn hết là khao khát hạnh phúc lứa đôi.
+ Nhận xét chung về hai bài thơ của hai tác giả:
Cả hai đoạn thơ đều thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình - tác giả đối với quê hương nhưng được khai thác bằng nét khác nhau đúng với yêu cầu “khoa học là ta, văn học là tôi”. Đều vận dụng bút pháp “tả cảnh, ngụ tình” bằng cách khai thác không lầm lẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét