KS Minh Bình
I. DẪN NHẬP
Có
một nhà chính trị kỳ tài, một nhà cải cách xã hội và đồng thời là một
nhân vật Phật giáo lỗi lạc ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ thứ VI, người đó là Thái
tử Thánh Đức…
Như
chúng ta đã biết, lịch sử là quá khứ. Quá khứ đó có thể là một bản anh hùng ca
mà cũng có thể là một vở bi kịch. Tuy nhiên, ai có thẩm quyền để đánh giá lịch
sử? Bởi vì cuộc sống quá tương đối, tương đối đến nỗi những gì hôm nay là đúng
thì ngày mai nó lại có thể là sai!... Chính vì sự thật này mà khi đến với môn
lịch sử, người ta có thể thẩm định lại mọi điều qua những sự kiện lịch sử đã
biết. Có lẽ vì vậy mà khi tìm hiểu về một nhân vật lịch sử của Nhật Bản là Thái
tử Thánh Đức, người viết càng cảm thấy thú vị hơn. Và đây chính là động cơ để
luận văn này ra đời.
Trong
quá trình tìm hiểu các sự kiện được trình bày rải rác trong sách, báo để hoàn
thành một luận văn về Thái tử Thánh Đức, người viết đã tham khảo và được thừa
kế một số nhận định rất giá trị của nhiều bậc thầy đi trước. Nếu như phần nói
về Thái tử Thánh Đức trong Lịch Sử Phật Giáo Nhật Bản của thầy Giác Dũng
có vẻ lướt qua theo khuynh hướng chung của tác phẩm, thì hòa thượng Thiên Ân đã
có những phân tích sâu rộng và nhiều lần bàn về Thái tử Thánh Đức từ những góc
độ khác nhau. Sở dĩ như vậy là do tác phẩm của Hòa thượng chủ yếu bàn về các tư
tưởng ở Nhật Bản.
Nhìn
chung, chưa có một bài viết hoàn chỉnh nào về đề tài Thái tử Thánh Đức. Từ
những kiến thức do Shinsho Hanayama, Đỗ Công Định, Kimura Taiken, Andrew
Skilton, Ni sư Vân Liên… cung cấp, người viết đã đối chiếu, sàng lọc, sắp đặt
lại theo lịch trình thời gian… để khả dĩ phác họa nên một Thái tử Thánh Đức
hoàn chỉnh. Công việc này thật thú vị, tuy có mất nhiều thời gian. Nó sẽ là một
kỷ niệm đẹp về thời Tăng sinh ở Học viện Phật giáo Việt Nam của người viết. Và
thật đáng tiếc là những tác phẩm gốc như Tam Kinh Nghĩa Sớ, Nhật Bản Thư Kỷ…
chưa được dịch ra tiếng Việt…
Sự
nghiệp hộ Pháp của Thái tử Thánh Đức chính là cuộc đời của ông. Nó cũng gắn
liền với sự nghiệp chính trị của Thái tử. Do vậy, theo đề tài đã chọn, người
viết sẽ triển khai ba chương về Tiểu sử Thái tư, Sự nghiệp chính trị
và Sự nghiệp hộ Pháp của Thái tử trong nội dung chính. Ngoài ra, luận
văn này cũng dành một chương để giới thiệu về Đất nước Nhật Bản. Đây là
những phạm vi mà người viết sẽ triển khai theo đề tài của luận văn.
Nói
đến lịch sử Nhật Bản và lịch sử Phật giáo Nhật Bản trong giai đoạn đầu, chúng
ta phải nhắc đến nhân vật lịch sử Shotoku – Thánh Đức. Chính vì thế mà hầu như
cuốn sách sử nào nói về Nhật Bản cũng cung cấp cho chúng ta một số tư liệu cần
thiết về Thái tử Thánh Đức. Đây là một điểm thuận lợi khi chúng ta nghiên cứu
về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Tuy nhiên, mỗi sách lại nói hơi khác nhau về
nhân vật này, do những góc độ nhìn của người viết, do mục đích và bối cảnh ra
đời của tác phẩm… Chính vì điểm này mà những sự kiện lịch sử về Thái tử tưởng
chừng đơn điệu, hạn chế đã trở nên hấp dẫn hơn. Do vậy, phương pháp nghiên cứu
được người viết áp dụng để viết về đề tài “Công đức hộ trì Phật giáo Nhật
Bản của Thái tử Thánh Đức” chủ yếu là phân tích và tổng hợp.
Với
sự cố gắng lao động nghiêm túc theo sự hướng dẫn nhiệt tình của các giáo thọ
sư, hy vọng rằng luận văn này có thể đóng góp vào kho tài liệu chung của bộ môn
trong chuyên ngành. Như vậy, cứ qua mỗi khóa học, chúng ta lại có thêm nhiều tư
liệu phong phú…
II. BỐI CẢNH NHẬT BẢN VÀO THẾ KỶ VI
Nhật
Bản, vào thế kỷ I được Trung Quốc gọi là Oa quốc, là một nước của các giống dân
Đông di[1](theo
Hậu Hán Thư). Chữ “Oa” vốn được dịch từ chữ “Yamato” của Nhật Bản. Đến
khoảng thế kỷ VII, Thiên hoàng Genmei (Nguyên Minh) của Nhật Bản đổi tên nước
là Đại Hòa, nhưng vẫn được đọc là “Yamato”.
Là
một quốc gia nằm ở phía Đông châu Á, trải ra theo một vòng cung dài khoảng 3800
km trong Thái Bình Dương, Nhật Bản bao gồm hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó
có bốn đảo lớn nhất là Hokkaido, Honsu (chiếm 61% tổng diện tích), Shikoku và
Kyushu. Với diện tích 378.000 km2, dân số 127,7 triệu người (năm
2005), Nhật Bản có mật độ dân cư tương đối cao là 337,8 người/km2.[2]
Hiện
nay, Nhật Bản là nước đứng thứ hai thế giới về kinh tế, tài chính. (GDP năm
2005 của Nhật Bản đạt khoảng 4800 tỷ USD, chỉ sau Mỹ). Nhưng vào thế kỷ thứ VI,
Nhật Bản đang ở vào giai đoạn Thời đại Cổ phần (thế kỷ III – VII). Đặc điểm của
giai đoạn này là quốc gia Nhật Bản được thống nhất từ hàng trăm nước nhỏ,
trở thành một nhà nước trung ương tập quyền, văn hóa phát triển, Phật giáo
chính thức được truyền vào Nhật Bản từ bán đảo Triều Tiên (từ nước Bách Tế,
Paekche, thuộc Hàn Quốc ngày nay). Trong giai đoạn này cũng đã xảy ra một cuộc
đảo chánh lớn nhất trong lịch sử chính trị cổ đại Nhật Bản là các Hoàng thân đã
tiêu diệt dòng họ Soga chuyên quyền vào năm 645…[3]
Thời
đó với Nhật Bản, Phật giáo không chỉ là tôn giáo mà còn là một thứ văn hóa mới
mẻ và có nhiều điểm tiến bộ. Các kỹ thuật về nông nghiệp, kiến trúc, chữa bệnh
đã theo Phật giáo vào Nhật Bản và được dân chúng đón nhận. Triều đình chính
thức đón nhận Phật giáo qua việc Nhật hoàng Yòmei lễ Phật năm 585. Trong giới
quý tộc, dòng họ Soga (Tô-ngã) mà tiêu biểu là Soga No Umako (Tô-ngã Mã-tử) rất
hâm mộ Phật giáo. Tuy nhiên, đối địch với dòng họ Soga là dòng họ Mononobe
(Vật-bộ) lại bài trừ Phật giáo và muốn duy trì sự độc tôn của đạo Shinto (Thần
đạo ở Nhật Bản).
Chính
Phật giáo đã là một cái cớ quan trọng để sự đối lập chính trị của hai dòng họ
Soga và Mononobe trở nên căng thẳng. Sự đối lập của hai hai dòng họ có thế lực
lớn này kéo dài khoảng 50 năm, và đã trở nên nặng nề vào năm 552, khi triều
đình Bách Tế gởi tặng Thiên hoàng Khâm Minh (Thiên hoàng thứ 29) một tượng Phật
bằng đồng, một số tràng phan, bảo cái và kinh luận… Tiếp nhận các tặng vật
trên, triều đình Nhật Bản đã xảy ra sự tranh cãi. Soga No Iname (Tô-ngã
Đạo-mục) có tầm nhìn rộng, thường quan tâm đến những gì được truyền từ phương
Tây, nhất là từ Trung Quốc, thì chủ trương sùng Phật; còn Mononobe No Okoshi
(Vật-bộ Vĩ-liên) lại coi trọng tín ngưỡng thần kỳ cố hữu và truyền thống của
dân tộc nên chủ trương bài Phật. Từ đó, việc thờ cúng tượng Phật, tu tập theo
Phật giáo… là duyên sự để hai dòng họ Soga và Mononobe đấu đá nhau trên chính
trường Nhật Bản, cho đến khi dòng họ Mononobe bị đánh bại vào năm 587, sau khi
Thiên hoàng Yomei vừa băng hà.
Thần
đạo (Shinto) là tôn giáo của dân tộc Nhật Bản. Tôn giáo này đã được hình thành
tại Nhật Bản từ xa xưa, do những tín ngưỡng về tự nhiên thần và tổ tiên thần
của người Nhật Bản. Song hành cùng dân tộc, Shinto đã không ngừng lớn mạnh tại
Nhật Bản cho đến tận ngày nay. Vào thế kỷ VI, Shinto là tôn giáo chính của cả
đất nước Nhật Bản.
III. TIỂU SỬ THÁI TỬ THÁNH ĐỨC
Hoàng
tử Shotoku (Xứng Đức) sinh năm 574 tại Nhật Bản. Hoàng tử là con trai của thiên
hoàng Yòmei (Dụng-minh), thiên hoàng thứ 31 của Nhật Bản, và hoàng hậu Anahobe
Hashihito. Vốn có thiên tư thông minh, Hoàng tử đã thông suốt cả Nho học, Phật
học, Thiên văn, Địa lý và Lịch pháp…
Năm
587, Thiên hoàng Yomei băng hà. Dòng họ Soga đã đưa chú họ của Hoàng tử là
Sushun (Sùng-tuấn) lên ngôi Thiên hoàng. Năm 592, Thiên hoàng Sushun bị bạo
thần Soga No Umako của dòng họ Soga ám hại. Năm 593, người chị của Sushun đã
lên kế vị, lấy hiệu là Thiên hoàng Suiko (Suy-cổ). Thiên hoàng Suiko là vị nữ
hoàng đầu tiên và là Thiên hoàng thứ 33 của Nhật Bản. Vừa lên ngôi, Thiên hoàng
Suiko đã phong Hoàng tử Shotoku làm quan Nhiếp chính đại thần, hiệu là Thái tử
Thánh Đức, thay mặt Thiên hoàng điều hành đất nước.
Khi
lên điều hành đất nước, Thái tử Thánh Đức vừa mới 19 tuổi. Trong 30 năm nhiếp
chính (593-622), Thái tử Thánh Đức đã làm được những sự nghiệp vĩ đại như chế
định ra các chức vị của triều đình, ban Thất Thập Điều Hiến Pháp, phái
nhiều đoàn sứ giả qua cầu thân và học hỏi với Trung Quốc, khởi xướng việc biên
soạn sử sách, ủng hộ Phật giáo…
Bàn
về nhân cách của Thái tử, bộ Nhật Bản Sử Khái Thuyết nhận xét:
Ở thời ấy, người có công nhất trong việc cải-cách chính-thể
quốc-gia và khởi-xướng phong-trào văn-hóa lập-quốc là Thánh-Đức Thái-tử.
Thái-tử thường lấy tư-tưởng của Phật-giáo và Nho-giáo làm tiêu-chuẩn cho
hành-nghi đạo-đức.
Nhân-sanh-quan và thế-giới-quan của hai hệ-thống tư-tưởng Đông-phương này đã thể-hiện hoàn-toàn trong cá-nhân của Thái-tử. Ngài có những nhân-cách và đức-độ siêu-quần, nên người đời thường tôn-xưng là Thánh-Đức Thái-tử, hoặc Thánh-vương, Pháp-vương, Thánh-Đức-vương v.v…[4]
Cũng
theo sách ấy cho biết, thì Thái tử đã theo học Phật pháp với hai vị sư người
Triều Tiên là ngài Huệ Từ và Huệ Thông trong bảy năm và học Nho học với một lão
Nho là ngài Giác Kỳ… Thái tử đã nghiên cứu sâu rộng về Phật pháp. Ngài có thể
giảng kinh như các bậc cao Tăng và đã biên soạn kinh sách như các bậc học giả
lỗi lạc.
Thái
tử Thánh Đức là một người rất yêu chuộng các vấn đề văn hóa học thuật. Cho nên
dù rất hâm mộ Phật pháp, nhưng Thái tử vẫn luôn giúp đỡ các tôn giáo khác.
Thái
tử mất vào năm 622, do bị bệnh. Sự ra đi của Ngài là nỗi buồn vô cùng cho Nữ
hoàng Suiko, cho gia đình Ngài và toàn thể thần dân Nhật Bản. Để tưởng nhớ về
người chồng và người cha thân yêu, để tưởng nhớ về vị Nhiếp chính đại thần tài
ba lỗi lạc, vợ và các con của Thái tử cũng như các vị đại thần trong triều đã
cho tôn tạo một pho tượng Phật Thích-ca Mâu-ni có kích thước giống y như kích
thước của Thái tử lúc sinh thời. Tượng do nhà điêu khắc Tori (Chỉ-lợi) thực
hiện, được hoàn thành vào đúng một năm sau khi Thái tử mất. Tượng được phụng
thờ ở điện Kondo (Kim Đường), chánh điện của chùa Horyu (chùa Pháp Long).[5]Đến
năm 643, cả gia đình Thái tử bị tiêu diệt tại ngôi già-lam Wakakusa (Nhược
Thảo).
Về
sau, vào thời Heian (Bình An), Kamakura (Liêm Thương), ở Nhật Bản rất thịnh
hành truyện tranh về Thái tử Thánh Đức. Trong dân gian và các tự xã cũng phổ
biến việc thờ chân dung hoặc tượng khắc của Thái tử.[6]Đến năm 1950, Thánh Đức tông (Shotoku Shu)
được thành lập ở Nhật Bản. Tông này là chi phái của Pháp Tướng tông. Tổng bản
sơn của tông Thánh Đức được đặt tại chùa Horyu, chùa do Thái tử Thánh Đức cho
xây dựng từ xưa.
IV. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA THÁI TỬ THÁNH ĐỨC
1. Ổn định chính trị – xã hội
Sau
khi lên làm Nhiếp chính đại thần theo sự suy cử của Thiên hoàng Suiko cùng
triều đình, đầu tháng 2 năm 594, Vương lệnh tôn vinh Ba ngôi báu được
Thái tử Thánh Đức ban hành tại Nhật Bản. Đại khái, sắc lệnh này khuyến khích
toàn dân tin tưởng, kính trọng và ra sức hưng long Tam bảo. Từ đó, tuân hành
theo chỉ thị của Thái tử, mọi người đua nhau lập nhiều tháp miếu, chùa chiền…
để tôn vinh Tam bảo. Kể từ đây, Phật giáo bắt đầu có vị thế vững chắc ở nước
Nhật và tư tưởng Phật giáo đã trở thành mối đoàn kết của cả dân tộc.
Đến
ngày 3 tháng 4 năm 604, Thái tử đã ban hành Jushichijo No Kempo (Hiến
Pháp 17 Điều). Đây là bản hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản, có tính chất vô
cùng quan trọng. Hiến Pháp 17 Điều có những nội dung chính như sau: đề
cao Thiên hoàng và sự hòa thuận để thống nhất ý chí, huấn thị bách quan trong
triều đình và đưa ra chính sách trị dân của chính phủ.
Tham
khảo Hiến Pháp 17 Điều do hòa thượng Thiên Ân dịch đầy đủ từ Nihonshoki
(Nhật Bản Thư Kỷ), một tác phẩm chính sử của Nhật Bản được soạn vào thế
kỷ thứ VIII (khoảng năm 720), ta có thể tóm tắt từng điều như sau:
Điều 1: Lấy hòa làm quý, lấy thuận làm tôn.
Điều 2: Kính ngưỡng và phụng hành Tam bảo.
Điều 3: Triệt để tuân hành chiếu chỉ của Thiên hoàng. Vua là
trời, tôi là đất.
Điều 4: Lấy lễ làm gốc, trị dân phải dùng lễ.
Điều 5: Bỏ tham bớt dục, không tranh đua kiện tụng.
Điều 6: Khuyến thiện bỏ ác, trung với vua, hiếu với dân…
Điều 7: Giữ trách nhiệm, không lạm quyền. Lo cho nước, giúp
cho dân…
Điều 8: Chuyên cần với nhiệm vụ.
Điều 9: Quần thần phải tín nhiệm nhau.
Điều 10: Cẩn thận dè dặt, bỏ bớt sân hận, nhẫn nhịn với
người chưa hiểu mình.
Điều 11: Công tội phân minh, thưởng phạt công bằng.
Điều 12: Nước không hai vua, dân không hai chủ.
Điều 13: Từ trên xuống dưới phải giữ hòa khí.
Điều 14: Bách quan không nên tật đố ganh ghét nhau.
Điều 15: Bỏ tư phụng công để thượng hòa hạ mục.
Điều 16: Dùng dân phải đúng thời, không để dân phải bỏ việc
cày cấy khi vào mùa.
Điều 17: Đại sự không quyết đoán một mình. Cho đến bất cứ
chuyện lớn nhỏ nào đều nên lấy ý kiến chung.[7]
Qua
bản hiến pháp này, một cách gián tiếp, chúng ta thấy được tính chất phức tạp
của xã hội Nhật Bản thời đó. Từ hiện thực xã hội Nhật Bản có nhiều đảng phái,
có nhiều quý tộc lộng hành, chuyên quyền… Thái tử đã dùng lòng can đảm kết hợp
với trí tuệ sáng suốt và đức độ bao dung để đưa ra một bản hiến pháp tuy ngắn
gọn nhưng rất ý nghĩa và đã nêu bật được tính chất “đức trị” của nó, đúng như
danh hiệu Thánh Đức vốn được lấy từ câu Thánh vương chi đạo đức chính trị
của Trung Quốc.[8]
Có
tham khảo Hiến Pháp 17 Điều, chúng ta mới không dễ dàng chấp nhận một số
nhận định chưa chính xác, như: “…Thái tử đã công bố bản “Hiến Pháp 17 Điều”
với “Những lời giáo huấn đạo đức phần lớn là đạo Nho xen lẫn những ảnh hưởng
của tư tưởng Pháp gia, nhưng xét về bản chất thì lại là các giáo lý của Phật
giáo... Điều mà Thái tử thực hiện đánh dấu bước tiến lớn đầu tiên trong sự phát
triển của đạo Phật Nhật Bản”.”[9]
Hiến
Pháp 17 Điều là một tác phẩm diễn tả những quan
niệm chính trị, luân lý, đạo đức, nhân sinh quan và thế giới quan của Thái tử
Thánh Đức. Hiến Pháp 17 Điều đã ra đời từ những kế thừa có chọn lọc và
tổng hợp những trí tuệ Nho giáo cùng Phật giáo của Thái tử Thánh Đức. Như vậy,
khách quan mà nói thì Hiến Pháp 17 Điều vốn là trí tuệ chung của nhân
loại. Người Phật giáo có thể nói: “Bản chất của nó lại là giáo lý của Phật
giáo”, nhưng đây không phải là một nhận định khách quan. Còn Pháp gia, như
chúng ta đã biết, là một trường phái tư tưởng cổ đại Trung Quốc, do các chính
trị gia thời Chiến Quốc là Thân Bất Hại, Thương Ưởng và Thận Đáo đề cao thuật
(mưu mẹo), pháp (luật pháp) và quyền (quyền thế).
Trường phái Pháp gia chủ trương pháp trị chứ không phải đức trị.
Điều
2 của Hiến Pháp 17 Điều thường được mọi người nhắc đến vì nội dung của
nó như sau: “Phải dốc lòng quy kính Tam bảo. Tam bảo là Phật, pháp, tăng. Tam
bảo là nơi nương tựa của 4 loài, được muôn nước tôn kính. Đời nào cũng thế,
người nào cũng thế, hễ ai tôn kính Tam bảo thì không làm điều ác…”[10]
Điều
khoản này có lẽ chỉ là phần lặp lại của Vương lệnh tôn vinh Ba ngôi báu
mà Thái tử đã ban hành vào đầu năm 594. Như vậy, Thái tử đã vận dụng công đức
của Tam bảo như một phạm trù đạo đức, nhằm giúp con người tránh điều ác, làm
điều lành. Để xây dựng một xã hội lý tưởng, trong xã hội đó mọi người đều tôn
trọng đạo đức, Thái tử với cương vị là nhà lãnh đạo quốc gia, đã khéo léo vận
dụng những luân lý Phật giáo vào hiến pháp của đất nước. Trong bối cảnh Nhật
Bản thế kỷ VI, trong bối cảnh chung của cả thế giới vào giai đoạn này, việc làm
trên của Thái tử có ý nghĩa vô cùng lớn, mang phong cách của một minh quân.
Để
ổn định nền chính trị của đất nước, tạo ra một trật tự cần thiết cho xã hội,
Thái tử ngoài việc soạn thảo và ban hành một bản hiến pháp tổng hợp từ những
nguồn tư tưởng Nho gia và Phật giáo… Ngài còn phân định về các cấp quan lại ra
thành 12 bậc. Đây là hệ thống cấp bậc quan lại theo mẫu của Trung Quốc, thay
cho chế độ cha truyền con nối.
2. Phát triển văn hóa, canh tân đất nước
Thái
tử đã ra lệnh viết lịch sử của đất nước. Trong thời Thái tử chấp chính, hai bộ
sử Thiên Hoàng Ký và Quốc Ký đã được hoàn thành.[11]Đây
cũng là một thành tựu đáng kể của Thái tử, mang tính cách một chính sách (đường
lối chính đáng) và đã tạo ra một nền sử học Nhật Bản phong phú. Chính sự trân
trọng quá khứ sẽ đưa chúng ta đến những kết quả tốt đẹp trong tương lai…
Năm
607, Thái tử gởi sứ đoàn sang nhà Tùy để học tập văn hóa Trung Quốc, đồng thời
gởi kèm theo mấy chục nhà sư để xin học tập Phật pháp tại Trung Quốc. Sứ đoàn
này do học giả Ono No Imoko (Tiểu-dã Muội-tử) dẫn đầu. Nhiều Tăng, Ni của Trung
Quốc, Triều Tiên đã được mời sang Nhật Bản để truyền đạo và phát triển văn hóa
Phật giáo trong đại bộ phận nhân dân. Suốt trong 30 năm làm nhiếp chính
(593-622), Thái tử đã ba lần cử các sứ đoàn sang Trung Quốc để thực hiện những
việc cao cả trên.[12]
Sự khuyến khích và tạo điều kiện cho một số trí thức Tây du của Thái tử và triều đình Nhật Bản lúc bấy giờ là một chính sách khôn ngoan. Chính đội ngũ này đã mang về cho Nhật Bản nhiều trí tuệ, kinh nghiệm… quý báu của Trung Quốc để góp phần cải cách văn hóa Nhật Bản, từ đó tiến tới xây dựng đất nước giàu mạnh. Đường lối Tây du này đến thời Minh Trị cải cách đất nước lại được áp dụng ở Nhật Bản. Đây quả thật là một nét hay của xứ Hoa Anh Đào: hạ mình học hỏi rất nhiều nhưng không bao giờ mất bản sắc!
Trong quyển Lược Sử Phật Giáo Nhật Bản, Shinsho Hanayama đã tổng kết về sự nghiệp chính trị của Thái tử Thánh Đức như sau:
Trong thời gian 30 năm chấp chính THÁNH ĐỨC THÁI TỬ đã xây
dựng vững chắc nền tảng của vương quyền và nỗ lực nâng cao nền văn hóa
Nhật-bản. THÁNH ĐỨC THÁI TỬ xem Phật giáo là suối nguồn tư tưởng và tiến hành
công cuộc cải cách rộng khắp. Ngài mở mang trường học và ban hành một hiến
pháp, cử sứ thần và đưa sinh viên sang Trung Hoa để thu thập kiến thức mang về.
Ngài kích khởi nền công nghiệp và không quên để tâm đến việc săn sóc nuôi dưỡng
những người bịnh hoạn, trẻ mồ côi và người già yếu. Ngài đưa ra những phương
sách để cải thiện hệ thống giao thông liên lạc và không quên hướng dẫn dân
chúng biết bảo dưỡng súc vật. Dưới sự chỉ đạo của THÁNH ĐỨC THÁI TỬ quyển lịch
sử nước Nhật được biên soạn. Những thành tựu to lớn trong thời THÁNH ĐỨC THÁI
TỬ chấp chính quả thật đã đánh dấu một thời đại huy hoàng trong lịch sử của
nước Nhật-bản.[13]
V. CÔNG ĐỨC HỘ TRÌ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN BUỔI SƠ KHAI CỦA THÁI
TỬ
1. Hộ trì Tam bảo
Đối
với Phật giáo, Thái tử dốc sức hưng long Tam bảo, xây chùa, giảng kinh, viết sớ
giải các bộ kinh đại thừa… Thái tử đã cho xây dựng nhiều chùa như chùa Hòryù
(Pháp Long), chùa Shintennò (Tứ Thiên Vương), chùa Chùgù (Trung Cung), chùa
Ikejiri (Trì Hậu)… Ngày nay, chùa Hòryù là ngôi chùa bằng gỗ xưa nhất thế giới.
Nó thật sự là một di sản văn hóa thế giới của Nhật Bản.
Theo
lời thỉnh của Thiên hoàng, Thái tử đã từng giảng Kinh Thắng-man, Kinh
Pháp Hoa. Và Thái tử đã viết sớ giải ba bộ kinh, được gọi là Sangyogisho
(Tam kinh nghĩa sớ): Pháp Hoa Kinh Sớ, Duy-ma Kinh Sớ và Thắng
-man Kinh Sớ.[14]
Đối
với nền Phật giáo Nhật Bản, Thái tử được tôn kính như một nhà sáng lập: “Thái
tử Shotoku (572-622) là người Nhật Bản đầu tiên thực sự hiểu hết các giá trị
cao cả của đạo Phật và tin tưởng vào nó cũng như bản thân đức Thích Ca. Ông
chính là người sáng lập ra Phật giáo Nhật Bản một cách chính thức, thế nên, sau
này thậm chí ông còn được xem là hóa thân của đức Phật.”[15]
Với
dụng ý muốn dùng Phật giáo để cải tổ đất nước, nên giới lãnh đạo Nhật Bản đã
khuyến khích Phật giáo đi vào nước họ. Sự tranh thủ Phật giáo quá trớn của
chính phủ đã tạo ra một nền Phật giáo Nhật Bản sơ khai có phần hạn chế, cục bộ
trong giới quý tộc. Theo Andrew Skilton, chính Thái tử Thánh Đức cũng có một
phần trách nhiệm trong việc này:
Kết quả của chính sách này là trong nhiều thế kỷ, Phật giáo
đã chủ yếu thu hẹp trong giới quý tộc, ít có sự tiếp xúc với giới bình dân và
chịu nhiều sự bất lợi do sự đỡ đầu chính trị. Chính sách này được tiêu biểu bởi
thái tử Shotoku (574-622), là người muốn có một nhà nước tập quyền dưới sự điều
khiển của một hoàng đế theo kiểu của đế quốc Trung Hoa, và cổ võ sự phát triển
của Phật giáo để tạo sự kích thích văn hóa.[16]
Thời
Thái tử Thánh Đức, Phật giáo tuy đã trở thành quốc giáo của Nhật Bản nhưng vẫn
đang trong giai đoạn phiên dịch, lý luận, chưa phát huy hết những giá trị của
Phật giáo, chưa hoàn toàn thế chỗ Thần đạo trong dân gian. Chính đến thời
Heian, Kamakura, Phật giáo Nhật Bản mới được hoàn thiện và mạnh mẽ. Do vậy,
Thái tử cũng phải bị một số hạn chế khách quan do hoàn cảnh lịch sử. Trong khi
triều đình Nhật Bản tiếp nhận Phật giáo mang tính chính trị, dân chúng Nhật Bản
đến với Phật giáo bằng những tín ngưỡng sùng bái thần, mà Thái tử đã học Phật,
giảng Pháp, viết chú sớ cho ba bộ kinh Đại thừa… thì chúng ta không thể kết
luận là Thái tử đã không biết được cách hộ Pháp đúng đắn.
2. Tam Kinh Nghĩa Sớ và Tinh thần Thánh Đức
Theo
Kimura Taiken, trong 13 phái Phật giáo thời Tùy, Đường của Trung Quốc, chỉ có
Tỳ-đàm tôn (Câu-xá tôn) có thể nói là chân chính Tiểu thừa, còn 12 phái kia
(Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Duy Thức tông…), trên bản chất
thì thuộc Tiểu thừa, nhưng đều tự coi mình là Đại thừa!... Từ kiến giải này,
Kimura Taiken đã đề cao tính Đại thừa thuần túy của Phật giáo Nhật Bản và ông
đã liên hệ đến khởi nguyên của Phật giáo Nhật Bản là từ Thái tử Thánh Đức như
sau:
…Phật giáo Nhật Bản phát huy đặc chất của Đại Thừa, coi nhẹ
phần ẩn dật mà thiên trọng phần hoạt động, coi nhẹ phần học vấn mà trọng phần
thực hành. Điểm này ta hãy lấy ngay trường hợp của Thái tử Thánh Đức sẽ rõ:
Thái tử Thánh Đức chú thích kinh Pháp Hoa đến đoạn nói “nên ở những nơi núi
rừng u tịch mà tu luyện” thì ông chua thêm là: “không nên, vì mục đích của đạo
Phật là lấy sự hoạt động ngay giữa xã hội thực tiễn để phát huy cơ năng của
mình”. Và mãi mãi về sau tinh thần Thánh Đức đã trở thành tinh thần chỉ đạo của
Phật giáo-giới Nhật-Bản.[17]
Qua
nhận xét trên của ngài Kimura Taiken, chúng ta mới nhận ra rằng sẽ rất là thiếu
sót nếu đánh giá về công đức hộ trì Phật giáo Nhật Bản của Thái tử Thánh Đức mà
không xem xét bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ của Thái tử. Tuy nhiên, do điều kiện
học và nghiên cứu có phần hạn chế, các Tăng, Ni sinh cũng khó mà làm được công
việc trên. Hiện nay, ba tác phẩm chú sớ của Thái tử đã được nhập vào Taisho
Tripitaka, ở dạng sách và bản điện tử chữ Hán, chưa được chuyển dịch ra
Việt ngữ.
Nhưng
qua những kiến thức do hòa thượng Thiên Ân cung cấp, chúng ta có thể hiểu biết
phần nào về sự việc chú giải ba bộ kinh của Thái tử. Dựa theo Nihonshoki, Hòa
thượng cho biết: Thái tử đã giảng Kinh Thắng-man trong vòng ba ngày và
giảng xong bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho Thiên hoàng Suiko cùng các quý
tộc, quan lại nghe. Sau khi Thái tử giảng xong, mọi người đều rất khâm phục tài
năng, trí tuệ của Thái tử. Riêng Thiên hoàng đã tặng cho Thái tử 100 mẫu ruộng
ở tỉnh Phan-ma-quốc.
Giảng
kinh xong, Thái tử sớ thích Kinh Thắng-man từ năm 609 đến năm 611, sớ
thích Kinh Duy-ma từ năm 612 đến năm 613, sớ thích Kinh Pháp Hoa
từ năm 614 đến năm 615. Như vậy, trong vòng 6 năm, Thái tử đã chú giải xong ba
bộ kinh trên.
Vì
sao Thái tử chỉ giảng giải và chú thích ba kinh trên thôi? Câu hỏi này đã từng
được đặt ra trong giới Phật giáo Nhật Bản. Mọi người đã bàn cãi và đa số đã cho
rằng: ba kinh trên là những kinh căn bản, có ý nghĩa thù thắng, có lý luận sâu
sắc nhất của Phật giáo Đại thừa.[18]
Ba bộ kinh mà Thái tử đã chú giải đều chứa đựng những diệu lý cao siêu, nhưng chúng đều ngắn gọn hơn các kinh Đại thừa khác như Hoa Nghiêm, Đại Bát Niết-bàn, Đại Bát-nhã… Ba tác phẩm chú giải đó gồm 8 quyển. Chúng là những tác phẩm đầu tiên được viết bằng tiếng Nhật. Loại chữ được dùng trong ba tác phẩm đó là thứ chữ Nhật cổ xưa nhất mà ngày nay người ta được biết. Đặc biệt, tác phẩm Hokekyogisho (Pháp Hoa Kinh Nghĩa Sớ) nguyên bản do chính Thái tử thủ bút đến nay vẫn còn được gìn giữ tại hoàng cung Nhật Bản.[19]
Chúng
ta cũng có thể hình dung được đặc điểm của những tư tưởng Phật giáo do Thái tử
triển khai qua ba bộ kinh mà Thái tử đã sớ giải. Trong ba bộ đó, thì Kinh
Thắng-man đề cao một nữ cư sĩ: phu nhân Thắng-man, con vua Pasenadi và
hoàng hậu Malika; còn Kinh Duy-ma-cật đề cao một vị nam cư sĩ: trưởng
giả Duy-ma-cật. Chú giải Pháp Hoa thì Thái tử khuyên người Phật tử phải hoạt
động ngay giữa xã hội. Còn hai kinh kia đã triển khai Phật pháp quanh trọng tâm
là vị thế cư sĩ. Thế thì, dùng ngôn ngữ của Nguyễn Lang mà nói, tư tưởng Phật
giáo của Thái tử là tư tưởng nhập thế, tích cực, là Tịnh độ cầm tay (giống điện
thoại trao tay…), là từng bước vào Tịnh độ… Shinsho Hanayama đã thuyết minh rõ
hơn Kimura Taiken về “tinh thần Thánh Đức” đã định hướng cho nền Phật giáo Nhật
Bản như thế nào:
Đức Phật mà THÁNH ĐỨC THÁI TỬ thờ phụng là đức Phật Pháp
Thân; Giáo Lý mà Thái Tử đặt trọn niềm tin là Giáo Lý Nhất Thừa, tức là Một Cỗ
Xe Duy Nhất. Trong đạo lý Nhất Thừa thì không có sự phân biệt giữa cư sĩ và tu
sĩ. THÁNH ĐỨC THÁI TỬ chủ trương rằng đạo lý nhất thừa phải là đạo lý của cuộc
sống hằng ngày và người ta không cần phải từ bỏ người vợ và những đứa con thân
yêu của mình, không cần phải đi vào rừng sâu núi thẳm để đắm mình trong thiền
định. Quan điểm tu tập như vậy đã xây dựng lên một pháp môn mang sắc thái đặc
biệt Nhật-bản.[20]
VI. KẾT LUẬN
Với
vài chục năm ngắn ngủi của một kiếp người phù du, người ta có thể học hỏi được
gì ở cuộc đời và có thể làm được gì cho mọi người? Câu hỏi xác định ý nghĩa của
kiếp nhân sinh này sẽ giúp chúng ta đánh giá được nhân phẩm và công lao của một
con người.
Đối
với Thái tử Thánh Đức, cuộc đời và sự nghiệp của ông đã gắn liền với lịch sử
dân tộc Nhật Bản. Nhìn đất nước Nhật Bản giàu đẹp ngày nay, chắc rằng người ta
sẽ nhớ đến người đã soạn thảo và ban hành bản hiến pháp đầu tiên của đất nước
này. Đồng thời, những cải cách văn hóa và xã hội Nhật Bản của Thái tử Thánh Đức
cũng sẽ được hậu thế mãi mãi tri ân.
Bên
cạnh đó, cuộc đời của Thái tử Thánh Đức cũng gắn liền với lịch sử Phật giáo
Nhật Bản. Đến với một nền Phật giáo vô cùng đặc sắc và không ngừng gắn bó với vận
mệnh của dân tộc như Phật giáo Nhật Bản, có ai là không nhớ đến người được các
tín đồ tôn xưng là bậc Tổ sư sáng lập Phật giáo ở nước này. Đặc biệt hơn nữa là
người ấy là một cư sĩ, một tể tướng, chứ không phải là một tu sĩ Phật giáo.
Người ấy xứng đáng là một người con ưu tú của Nhật Bản.
Phật
giáo đối với dân tộc Nhật Bản là một tôn giáo từ Triều Tiên và Trung Quốc
truyền đến, chứ không phải là tôn giáo chính thống của Nhật Bản. Nhưng nhờ các
vị Thiên hoàng từ đời này đến đời khác một lòng tôn sùng Tam bảo, nhiệt tâm ủng
hộ và truyền bá Phật giáo, nên dần dần Phật giáo biến thành tôn giáo của quốc
gia, liên hệ mật thiết đến sự sinh tồn của dân tộc Nhật Bản. Truyền thống tốt
đẹp này đã được bắt đầu từ Thái tử Thánh Đức.
So
với các vị vua hộ Pháp lừng danh khác trong Phật giáo, Thái tử Thánh Đức cũng
có điểm đại đồng tiểu dị. Các vị vua hộ Pháp ấy thật chẳng khác nào các bậc
Bồ-tát thị hiện làm quân vương để hộ trì Phật pháp tại nhân gian. Từ vua
Bimbisara, vua Pasenadi… ở Ấn Độ vào thời đức Phật, đến các vua Lương Võ Đế
(464-549) ở Trung Quốc, vua Trần Thái Tông (1218-1277) ở Việt Nam, vua
Jayavarman VII (thế kỷ XII) của đế quốc Khmer, vua Mindon (1808-1878) của Miến
Điện… các vị vua này đều có điểm tương đồng là hết lòng hỗ trợ cho sự hoằng
pháp của đức Phật và Tăng-già, đều dùng Phật pháp để góp phần điều hành đất
nước và xây dựng xã hội lành mạnh, và bản thân các vị ấy cũng tham gia tìm hiểu
và tu tập theo Phật pháp. Điểm khác biệt nhỏ ở Thái tử Thánh Đức là ngài được
tôn xưng là vị Tổ sư sáng lập Phật giáo Nhật Bản. Trong khi vua Lương Võ Đế để
lại cho hậu thế hàng trăm tác phẩm Phật giáo, thì Thái tử Thánh Đức chỉ để lại
một bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ, nhưng “Tinh thần Thánh Đức” đã in dấu rất sâu
sắc lên nền Phật giáo Nhật Bản, mà có dịp thì chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về
tinh thần đó trong bộ sớ giải của Thái tử.
Đến
với chuyên ngành lịch sử, chúng ta được du lịch khắp nơi qua những trang sách
nhỏ bé nhưng chứa nhiều điều kỳ diệu. Nền Phật giáo thế giới với hơn 2500 năm
thật vô cùng phong phú, đặc sắc và có biết bao nhiêu nhiệm mầu. Và hôm nay, một
lần dạo qua xứ Phù-tang, theo dõi nền Phật giáo Nhật Bản đặc sắc với Nhật Liên
Tông và Tịnh Độ Chân Tông… thì chúng ta lại nhớ đến vị Sơ Tổ của nền Phật giáo
nước này: đó chính là Thái tử Thánh Đức.
[1]Đông di, Tây nhung, Nam man, Bắc địch, chỉ có Trung Nguyên
mới văn minh. Đây là lòng tự tôn của dân tộc Hán đời xưa, cho rằng ở bốn phương
đều là các dân tộc mọi rợ.
[5]TS Thích Minh Thành dịch, Lược Sử Phật Giáo Nhật Bản
của Shinsho Hanayama, Tp. HCM, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 17.
[6]Thích Minh Cảnh chủ biên, Từ Điển Phật Học Huệ Quang,
tập VI, Tp. HCM, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2005, tr. 5088.
[8]Châm Vũ dịch, Nhật Bản Tư Tưởng Sử của Ishi Da Kazu
Yoshi, tập I, thiếu nơi xb, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1972,
tr. 125.
[9]Ban Văn Hóa Trung Ương, tạp chí Nghiên Cứu Phật Học
số 5 năm 2002, “Đạo Phật ở Nhật Bản” của Đỗ Công Định – Thích Minh Đăng,
tr.33.
[16]Nguyễn Văn Sáu dịch, Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới
của Andrew Skilton, Tp. HCM, Nxb Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh, 2004, tr. 215.
[17]Thích Quảng Độ dịch, Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
của Kimura Taiken, Sài Gòn, Ban tu thư Viện đại học Vạn Hạnh, 1969, tr.
170-172.
Nguồn: anhnhiendang.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét