Thích Thiện Chí
Văn bút "Bông hồng cài áo" của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãi ở Việt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 30 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ, nhưng sở dĩ được mến mộ vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ. Hòa thượng đã đáp ứng nguyện vọng thiết tha ấy và khơi đúng nguồn cảm xúc sâu xa tận đáy lòng mọi người. Bằng cách diễn đạt cảm xúc tận đáy lòng của chính mình. Chắc có lẽ, ai có mẹ, cũng thương mẹ, cũng nhớ mẹ và nghĩ về mẹ như thế. Rồi cũng có điều làm mọi người xốn xan. là mình đã lơ là thiếu bổn phận khi cha mẹ còn sanh tiền. Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng liêng, vô giá.
Cho nên, đối với mọi người - còn mẹ hay mất mẹ, "Bông hồng cài áo" làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó, hiểu mình phải làm gì để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng Bảy, đồng bào Việt Nam cũng như tín đồ Phật giáo đều đi chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành, cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền được sống lâu trăm tuổi, người đã qua đời thì siêu sinh thác hóa.
Sau khi hành lễ và nguyện cầu, từ sân chùa tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền.
Sau khi hành lễ và nguyện cầu, từ sân chùa tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền.
Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra cũng thể hiện cái gì đó đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó, mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón "Bài thơ", với tà áo dài phất phới tung gió, trước ngực mọi người, ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng, mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc cho thân phận mồ côi của mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chan chứa tình người mà ai đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thì người đó đẹp nết lẫn đẹp lòng.
Cho nên, hòa cùng với gió thu nhè nhẹ và mưa ngâu lất phất, mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con người trở thành hiền dịu bởi vì ai cũng hành trai giữ giới hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng điểm tô thêm cái đạo đức của con người. Biểu tượng "Bông hồng cài áo" đã được Hòa thượng Thích Nhất Hạnh chủ trương thực hiện tại Việt Nam sau khi Hòa Thượng đi du hóa tại Nhật rồi thấy và hiểu được ngày lễ của mẹ tại đất nước nầy. Ngày ấy, mọi người cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó hay hay nên khi về Việt Nam, Hòa thượng đã viết bài "Hoa Hồng cài áo" và phát động "cài Hoa hồng" vào dịp Vu Lan.
Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc tại sao Hòa thượng không cho cài hoa khác. Chẳng hạn hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ, thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ cha được trường thọ hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng thì mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc hoa hồng chứa đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ nói gì để biện minh cho biểu tượng "Bông hồng cài áo".
Nếu chúng ta quan sát, chúng ta sẽ thấy cây hoa hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang năm lá nhỏ. Còn lá gần nụ hoa chỉ có ba lá nhỏ mà thôi. Năm chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống đạo đức của người phụ nữ Á Đông và phụ nữ toàn thế giới nói chung.
Trước hết, xin bàn về ngũ thường. Một người con gái, người phụ nữ, người mẹ - xứng đáng, là người giữ trọn nhân cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình thương. Chính vì vậy, người phụ nữ rất sợ đau thương, chia lìa, chết chóc. Cho nên phụ nữ thường thương yêu súc vật, sợ giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng sữa là máu huyết, là nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất cả. Miễn sao con được no lòng.
Tình thương của mẹ thật dạt dào nên trong Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn : "Mẹ thời, ăn đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con ... lại còn khi ngủ, ướt mẹ nằm, khô ráo phần con ...Miễn con sung sướng dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm ... ". Chính cái lòng "nhân" đó, chính sự thương yêu đó, người phụ nữ thì mềm mỏng, nhiều cảm tình và đã hy sinh, chịu đựng cho người khác, nhất là cho con cái của mình.
Dù tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có cùng tột, người mẹ, được mọi người quý kính vì mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã biết trau dồi "công, dung, ngôn, hạnh". Nghĩa là tự sửa đổi và sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình "tiết sạch giá trong".
Cho nên "khuê môn bất xuất", giữ đạo làm con, học hạnh làm người. Khi về nhà chồng thì "thủ phận dâu con" kính trên nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắc được huấn dục từ nhỏ. Người con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương dương tự đắc thì người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn hạnh của mình. Cho nên, đối với cha mẹ, thì hiếu thảo, đối với anh chị em thì thuận hòa, đối với xã hội thì kính trên nhường dưới, đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Và làm vợ thì chung thủy.
Người ta thường nói "Trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Xét ra thì quá khắt khe với phụ nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đức tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có "Nghĩa" như vậy, mới chứng tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có "Hòn Vọng Phu", kể chuyện người đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi hóa đá. Sự hóa đá đó nói lên tấm lòng sắt son, nghĩa khí của người vợ, người mẹ. Cái "Nghĩa" đó là bài học giáo dục, là tình thương to lớn của người phụ nữ đối với chồng và con. Thường thì người mẹ nào thủ tiết thờ chồng, nuôi dạy con cái trong gia đình nên danh nên phận. Người ta thường đánh giá con qua tư cách của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng". Cho nên sự trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá của con.
Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào, cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá, người phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa, may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ "Nội tướng" vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong nhà đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người, phải chăng do trí của bà mẹ ?
Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ, tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàng, giáo dục khôn khéo v.v... đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái "Trí" của mẹ vậy.
Cuối cùng là chữ "Tín". Rất quan trọng đối với phụ nữ. Người mẹ được con yêu kính cũng vì chữ tín. Nghĩa là tư cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời nói và việc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá qua sinh hoạt và đời sống đạo đức của con người. Xưa kia, Khổng Tử thấy người ta giết lợn bèn về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử đáp : "Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn". Đã lỡ lời, dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ, không phải tự nhiên mà được mà là do hấp thụ các nhân cách, đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngũ thường là những đức tính cao quý mà tất cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ - để sau này truyền thụ lại cho con. Năm lá hoa hồng tượng trưng cho 5 đức tính cao đẹp ấy.
Khi hoa hồng có nụ, năm chiếc lá giảm xuống còn có ba, tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là muốn cho tình thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ. Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời, thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói : "giọt nước trước chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy".
Cho nên người mẹ muốn con mình hiếu thuận thì trước hết chính mình phải làm con hiếu thuận. Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời không muốn tự do và hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, người đàn bà đã hy sinh, đánh mất đi sự tự do của bản thân mình. Chịu nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đức gia phong. Đến khi có chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết thờ chồng nuôi con. Cho nên Tam Tòng là kết tinh cái giá trị cao quý của người đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người phụ nữ từ khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó kết tinh thành nhựa sống, sự yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và khởi sắc trước ánh mặt trời.
Hoa hồng, ngoài cái sặc sỡ của màu sắc, còn chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá còn ba lá, để sau cùng nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba bão táp để góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy, cái cao quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con. Khi có con, ngoài chuyện trao hết nhựa sống, khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên, màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã mất đi sức sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như hoa hồng không còn màu sắc. Chỉ còn một màu trắng tang tóc.
Bởi trải qua quá trình hy sinh, gian khổ, cho nên người mẹ dễ dàng kiệt lực. Hình ảnh chiếc hoa hồng sớm tàn phai phải chăng nói lên sự tàn phai, kiệt lực của người mẹ. Vì ai? Phải chăng vì chúng ta, những người con của mẹ.
Muốn chiếc hoa hồng đừng vội khô héo, úa tàn thì chỉ cần ngâm cành hoa vào ly nước lạnh. Nước lạnh thì có chất bổ dưỡng gì nhưng có nó, chiếc hoa hồng thêm sức sống. Cũng vậy, tình con đối với mẹ nhiều khi lợt lạt, lơ là, nhưng mẹ thiếu tình con, mẹ cũng chóng úa tàn, ủ dột. Vì vậy, rất diễm phúc cho người mẹ nào có con hiếu thảo. Người mẹ ấy sẽ sống lâu, thanh thản vui tươi một đời. Cho nên, hiếu thảo với cha mẹ là thêm sức sống cho cha mẹ. Thiếu tình thương với cha mẹ, hoặc sống không đạo đức, để cha mẹ lo âu, phiền muộn là bức tử cha mẹ - như hoa hồng thiếu nước vậy.
Tuy nhiên, dù con có đối xử thế nào đi nữa, thì cha mẹ vẫn cưu mang ưu hoài lo lắng về con. Suốt cuộc đời, nào phải dưỡng nuôi tần tảo, rồi giáo dục, dựng vợ gả chồng. Đến khi gần chết, còn lo cho con cho cháu đói no thiếu kém nên cuối cùng còn để cho con di sản, gia tài. Tục ngữ Việt Nam có câu "Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Nghĩa là công ơn của cha mẹ cao lớn, bất tận. Cũng như vậy, hoa hồng dù chóng tàn phai, nhưng đài hoa luôn luôn xanh tươi rắn chắc.
Cái khó chịu nhất của biểu tượng hoa hồng cài áo là những chiếc gai của nó. Bởi vì, nói mẹ là tình thương, là đạo đức, là tấm gương mẫu mực... nhưng cuối cùng, những chiếc gai đó như phá tan, làm đổ nát cái cao quý thiêng liêng về mẹ? Nhưng suy đi nghĩ lại, chính những cái gai đó mới lột tả hết cái tình thương cao quý của mẹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh có những bà mẹ vì quyền lợi, địa vị, danh vọng của con đã bằng tất cả mưu trí, kể cả tính độc ác để soán ngôi, tráo chúa. Vì con, mẹ cũng dám xé xác tình địch để dành chồng dành cha. Vì con, mẹ dám giết gà mổ heo để cho con được bổ dưỡng.
Cho nên Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có dạy : "Vì con miễn sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi giam cầm". Tất cả tính ích kỷ, nhỏ nhoi, độc ác, tị hiềm, thủ lợi v.v... của mẹ - là vì con. Con chó, con gà khi có con thì trở thành hung hăng. Loài súc sanh còn thế, huống chi con người. Cho nên thật là hay nếu chiếc hoa hồng thiếu gai, nhưng hoa hồng sẽ khó giữ được cái tươi đẹp, cái trọn vẹn của hoa hồng nếu không có một vũ khí tự vệ. Người con gái không có cứng rắn thì khó giữ được sự tinh nguyên của người con gái. Người mẹ thiếu đi tính ích kỷ, độc ác thì làm sao bảo vệ, nuôi dưỡng đàn con. Do đó, cái tưởng là cay cú, độc hiểm đó mới thể hiện đức tính cao quý của mẹ một cách trọn vẹn. Như vậy, biểu tượng "Hoa Hồng cài áo" là một biểu tượng diễn đạt hết tâm tình của người mẹ đối với con.
Cho nên cứ mỗi độ Vu Lan Rằm tháng Bảy, tất cả những người con sung sướng được gắn chiếc bông hồng lên áo. Nơi đó, tim ta đang thổn thức, làm chiếc bông hồng thêm sinh động, và tình mẹ con thêm dạt dào nhớ thương. Nhưng cài hoa hồng lên áo không có nghĩa là chỉ ca ngợi về mẹ, mà còn nhắc nhở chúng ta có hiếu với cha mẹ. Chúng ta có bổn phận phải đền đáp lại ân đức hy sinh của cha mẹ; đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục.
Nhưng đền đáp bằng cách nào cũng chẳng thấm tháp vào đâu! Giống như hạt muối bỏ vào biển. Như hạt cát thêm vào sa mạc. Nhưng dầu sao, có làm, có thể hiện thì cũng hơn không. May mắn cho chúng ta là chúng ta có giáo lý của Đức Phật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường cao thượng và phương pháp trả hiếu trọn vẹn. Ngày lễ Vu Lan, cung thỉnh thập phương Tăng, thiết trai cúng dường với thức ăn trăm món, trái cây trăm màu v.v... chỉ là thử thách lòng nhiệt thành của chúng ta và tháo gỡ, cứu thoát tâm bỏn xẻn, ích kỷ của cha mẹ khi còn sinh tiền. Cái quan trọng là chúng ta ý thức được sự hiếu đạo và thực hiện trong cuộc đời. Thông thường, khi chúng ta thọ ân ai mà muốn đền đáp lại, ai cũng muốn trả ơn cái mình đã thọ. Nếu không có đạo Phật thì chúng ta khó thể hiện được điều nầy. Bởi vì, công ơn cha mẹ cao như trời biển. Nhưng để đối lại cái đạo đức, cái khắc kỷ "ngũ thường" của cha me, chúng ta giữ "ngũ giới" của Phật giáo.
Cha mẹ mong cho chúng ta nên người, thành người đạo đức cho nên suốt cuộc đời người đã nhẫn chịu khuôn phép đạo đức của tổ tông, trui luyện đúng nhân phẩm. Nay chúng ta cũng phải suốt đời giữ tròn năm giới. Sở dĩ năm giới của Phật Giáo có thể đối đãi với công ơn cha mẹ, vì năm giới của Phật Giáo xuất thế - vượt trên cái đạo đức của con người. Giữ tròn năm giới không những chúng ta có đạo đức của một con người, mà chúng ta còn có tình thương bao la với người, với vật mà còn thoát khỏi cái nghiệp báo luân hồi. Một khi chúng ta thoát được nghiệp quả luân hồi thì chúng ta còn cứu thoát quả khổ của cha mẹ - như gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên.
Cho nên, muốn cha mẹ yên lòng không gì hơn là chúng ta có tình thương với muôn loài. Lục đạo chúng sanh cũng là cha mẹ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Muốn cứu rỗi cha mẹ, không gì hơn là thoát khỏi luân hồi. Người xưa có dạy :"Nhứt nhơn thành đạo, cữu huyền thăng". Cho nên giữ tròn năm giới là đáp lại năm đức của cha mẹ. Đồng thời cứu thoát cha mẹ khỏi trầm luân. Nhưng muốn hiểu và thực hành đúng năm giới đó, chúng ta phải quy y Tam Bảo. Bởi vì chỉ có Đức Phật, lời dạy của Phật, và sự hướng dẫn của chư Tăng là chơn chánh. Mẹ chúng ta vì chúng ta mà giữ tam tòng, để tròn đức hạnh của một người mẹ.
Chúng ta muốn tròn đức hạnh và xứng đáng là người con thì không gì quý hơn là phải sống chơn chánh - bằng cách quy về và thực hành theo giáo huấn của Tam Bảo. Phần tự tu tự độ cho chúng ta, nhờ thế được trọn vẹn. Nhưng điều đó chỉ đáp lại công hy sinh sức nhẫn nại của cha mẹ đối với chúng ta. Chúng ta phải phát tâm thêm nữa, thương người mến vật.
Tình thương bao la rộng lớn ấy mới đáp lại phần nào tình thương của cha mẹ đối với chúng ta. Cho nên hạnh lợi tha (làm lợi ích cho người khác) là công đức trọn đầy để hồi hướng cho tình thương của cha mẹ. Cha mẹ sanh tiền thương ta, muốn chúng ta sống an nhàn đạo đức, nếu chúng ta giũ tròn tam quy, ngũ giới thì đã làm cho cha mẹ vui lòng. Cha mẹ chết đi, để lại cho chúng ta gia tài sự sản. Đáp lại, làm con, chúng ta phải tìm cách siêu độ vong linh về thế giới an lành. Muốn vậy, chúng ta phải ăn chay, niệm Phật, tụng kinh v.v... mong sao cha mẹ mình về nơi an vui vĩnh viễn. Có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ tất cả nghiệp chướng mà cha mẹ chúng ta đã vì chúng ta mà gây tạo.
Tóm lại, đáp lại đức hạnh của mẹ, chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Đáp lại tình thương của mẹ, chúng ta phải phát tâm tu tập. Đáp lại công ơn sanh thành và dưỡng dục và lo lắng của cha mẹ, chúng ta phải cầu nguyện và hồi hướng công đức cho cha mẹ sớm về cõi Cực Lạc và để cởi bỏ nghiệp chướng mà cha mẹ đã vì chúng ta phải đeo mang, bằng sự tu tập chứng đắc và thanh tịnh của chính mình.
Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng bổn phận làm con và bông hồng cài trên áo mới trọn đầy ý nghĩa.
Thích Thiện Chí - GNO
Thích Thiện Chí - GNO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét