I. Kinh Bát Nhã
Nội dung Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
(Ngữ âm Hán - Việt)
1. Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
2. Xá Lợi tử ! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc ; Sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
3. Xá Lợi tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
4. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức ; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới ; vô vô minh diệc, vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận ; vô khổ, tập, diệt, đạo ; vô trí diệc vô đắc.
5. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố tâm vô quái ngại ; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng ; cứu cánh Niết bàn.
6. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
7. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết : "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề, tát bà ha".
Nội dung Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng
(Lời Việt)
1- Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng (1), Người Tỉnh Thức Bình Yên (2) soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể (3) đều là Không (4), liền thoát ly mọi khổ ách.
2- Này người con dòng Sari (5), hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể; hình thể là chân không, chân không là hình thể; cảm xúc (6), niệm lự (7), tư duy (8) và ý thức (9) đều là như vậy.
3- Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không; nó không sanh, không diệt; không nhơ, không sạch; không tăng, không giảm.
4- Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức (10) ; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ; không có hình thể, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm (11) và hiện hữu (12). Không có đối tượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức ; không có minh, không có vô minh (13), không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh ; cho đến không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết ; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau, và không có con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau (14) ; không có trí giác (15) cũng không có sự thành tựu trí giác, vì chẳng có quả vị của trí giác nào để thành tựu.
5- Người Tỉnh Thức Bình Yên, do sống an lành trong Tuệ giác Vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
6- Tất cả chư Phật trong ba đời (16) đều nương vào Tuệ giác Vô thượng mà thành tựu (17) chánh giác.
7- Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác Vô thượng là sức thần (18) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song; có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác Vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng :
"Đi qua, đi qua,
Đi qua bờ bên kia,
Đã đi qua đến bờ bên kia, reo vui!"
+ Câu điền khuyết (supply items): Nêu một mệnh đề có khuyết một bộ phận, anh chị phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào chỗ trống.
+ Câu trả lời ngắn (short answer): Là câu trắc nghiệm đòi hỏi chỉ trả lời bằng câu rất ngắn.
+ Câu nhiều lựa chọn (multiple choise questions): Đưa ra một câu hỏi hay một vấn đề và các phương án trả lời được đánh dấu bằng chữ cái A, B, C, D hay các con số 1, 2, 3, 4; anh chị phải chọn để đánh dấu vào một phương án đúng hoặc phương án tốt nhất.
- Trong các câu hỏi tự luận, các anh chị phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra.
Tin chắc với câu hỏi 1 này, sẽ có nhiều câu hỏi như trên.
2. Đặc điểm của bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh hiện nay đang được phổ biến lưu hành tại các nước Viễn Đông Châu Á.
Kinh Trái Tim Tuệ giác Vô thượng (Prajnaparamita Hrdaya Sutra) vốn có hai bản. Một bản dài và một bản ngắn. Bản ngắn đang được lưu hành rất phổ biến tại các nước Viễn Đông Châu Á (Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên). Bản dài lưu hành ở Tây Tạng và thường gặp trong các bản Phạn văn.
Cốt kinh hai bản giống nhau. Bản dài chỉ thêm phần dẫn đầu và phần kết. Phần dẫn đầu giới thiệu nơi nói Kinh tại núi Linh Thứu (Gridhrakuta) gần thành Vương Xá (Rajagriha), và thời gian nói Kinh lúc đức Phật nhập định (samadhi) thì Người Tỉnh thức Bình Yên giảng cho người con dòng Sari nghe về Tuệ giác Vô thượng. Trong đoạn dẫn đầu này có một câu quan trọng cho biết rằng: Tuệ giác Vô thượng thoát ly mọi từ ngữ, mọi ý lời. Tuệ giác Vô thượng không sinh không diệt, là mẹ của tất cả các đấng Giải thoát trong quá khứ, hiện tại và vị lai… Phần kết, nói sau khi đức Phật ra khỏi định, tỏ lời khen ngợi Người Tỉnh Thức Bình Yên đã diễn đạt đúng, chính xác về Tuệ giác Vô thượng trước pháp hội đông đảo lúc bấy giờ.
Do vậy, đặc điểm của bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh hiện nay đang được phổ biến lưu hành tại các nước Viễn Đông Châu Á là bản kinh ngắn, cô kết nhất, không hơn 300 chữ, không có phần dẫn đầu và phần kết như bản kinh dài.
Hiện nay, ở Việt Nam bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh là của Ngài Huyền Trang (595 - 664) đời nhà Đường, dịch từ thế kỷ thứ VII (năm 649) là bản kinh ngắn chữ Hán (còn gọi là bản Hán - Việt) có 260 chữ là phổ biến hơn cả và được chư Tăng Ni, Phật tử sử dụng trì tụng một cách rộng rãi.
3. Tìm hiểu về lịch sử tư tưởng Bát Nhã Tâm Kinh.
Về mặt lịch sử tư tưởng Bát Nhã Tâm Kinh là bộ kinh đầu tiên truyền bá tư tưởng Đại thừa (Mahayana), bắt nguồn từ miền Nam Ấn Độ, thuộc trung tâm truyền giáo của Đại chúng bộ (Mahàsamghikà) và đại biểu trung tâm của kinh này là Tánh Không (Sùnyata).
Theo sử liệu, tư tưởng Bát Nhã phát triển lên được là do “Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm” mới có, tức là khi còn tại thế, Đức Phật đã thuyết pháp 16 hội trong thời gian 22 năm về giáo lý bản kinh Bát Nhã này.
Nhưng cho đến kỳ kết tập kinh điển lần thứ tư xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên dưới sự hộ trì của vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska), một vị Đại đế Ấn Độ, văn tự (chữ Pali và chữ Phạn) mới được dùng để ghi chép kinh điển trên những phiến bằng đồng hoặc trên lá bối, trên gỗ, và cũng từ đây văn học Đại thừa cùng với văn tự Bát Nhã trên văn kinh ra đời.
Trong thời kỳ này tức là khoảng 100 năm trước Công nguyên, Tiểu phẩm Bát Nhã với 8.000 câu là một bản kinh đầu tiên của văn tự Bát Nhã, tức của văn tự Đại thừa ra đời. Mãi đến hơn 200 năm sau, tức là vào cuối thế kỷ thứ Nhất sau Công nguyên mới có bộ Đại phẩm Bát Nhã (tức bộ Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa) ra đời với 600 quyển, gồm 25.000 câu và một Đại phẩm Bát Nhã khác nữa với 18.000 câu. Như vậy hệ thống tư tưởng Bát Nhã của Phật giáo Đại thừa đã được hoàn thiện trong vòng hơn 200 năm kể từ khi Tiểu phẩm Bát Nhã ra đời. Sau đó, Ngài Long Thọ (Nãgãrjuna), một vị đại luận sư Ấn Độ sống vào khoảng thế kỷ thứ 1 và thứ 2 sau Công nguyên mới luận giải bộ Đại Bát Nhã 600 quyển 25.000 câu thành ra bộ luận Đại Trí Độ đồ sộ nhất trong kho tàng tạng luận của văn học Đại thừa, mở đầu cho kho tạng luận của Bát Nhã Đại thừa.
4. Về nội dung Tâm Kinh được đánh giá như thế nào và mục đích của kinh là gì?
Về nội dung Tâm Kinh được xem như là "Trái tim" của tư tưởng Phật học được nói ra bởi Tuệ giác Vô thượng của Phật với mục đích dẫn dắt chúng sanh đi vào thực tại - giải thoát.
Bởi vì bản Tâm Kinh thâu tóm yếu nghĩa tinh túy cốt lõi của bộ Đại tạng kinh Đại thừa tức là bộ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa đến 600 quyển, do đức Phật đem phần cao siêu vi diệu nhất trong giáo lý của mình thuyết giảng trải qua thời gian 22 năm, tại 4 nơi (xứ) với 16 hội:
- Núi Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá: 7 hội (hội 1, 2, 3, 4, 5, 6, 15).
- Khu Lâm viên Kỳ Đà - Cấp Cô Độc: 7 hội (hội 7, 8, 9, 11, 12, 13, 14).
- Cung trời Tha Hóa Tự Tại: 1 hội (hội 10).
- Gần ao Bạch Lộ trong Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá: 1 hội (hội 16)
Theo Ngũ thời Phật Pháp, thời kỳ này gọi là thời Bát Nhã, Phật giảng Vạn Pháp đều Không (Không luận - Không là bản thể của mọi thứ trong vũ trụ, và mọi thứ trong vũ trụ là biểu hiện của Không). Đức Phật cũng dạy rằng: "Con người là một hợp thể của năm uẩn". Năm uẩn là con người và năm uẩn cũng là thế giới. Và, "nếu không biết rõ về năm uẩn thì không thể giải thoát sinh tử khổ đau". (Kinh Samyuttanikaya).
Cho nên, mục đích của Tâm Kinh là dẫn dắt chúng sanh trở về thể tánh thanh tịnh, vĩnh hằng vốn có trong mỗi con người. Và sự thành tựu này là đạt đến trí tuệ Vô ngã hay thể nhập Tánh Không đạt đến Niết Bàn tối thượng. Tất nhiên sự thành tựu đó phải được khởi đầu bằng con đường "chiếu kiến ngũ uẩn", tức là đi vào hiện quán (thiền định) về Năm uẩn bằng pháp tu quán chiếu Bát Nhã.
Thực hành như vậy, cho đến khi nào "Năm uẩn" trở thành "giai không", nghĩa là thành tựu giác ngộ. Và kết quả của sự giác ngộ này là "độ nhất thiết khổ ách" để được giải thoát đạt đến Niết Bàn.
Đây là nội dung chính trong thông điệp của Tâm Kinh. Có thể nói rằng đó không những là "Trái tim" của Tâm Kinh mà còn là "Trái tim" của toàn bộ các hệ thống giáo lý của Đức Phật. Nói khác hơn, đó là điểm then chốt trong toàn bộ cơ cấu tư tưởng triết học Phật giáo.
5. Phân đoạn của kinh và ý nghĩa của từng phân đoạn.
Bản Tâm kinh lời Việt trên được chia thành bảy phân đoạn, biểu thị cho con đường Thiền quán của Bồ Tát, và được trình bày thứ tự như sau:
1. Phân đoạn một: Giới thiệu về Chủ thể quán sát, Trí tuệ quán sát, Đối tượng quán sát và Tác năng của trí tuệ quán sát.
2. Phân đoạn hai: Giới thiệu về Tính Không.
3. Phân đoạn ba: Giải minh về bản Tính Không.
4. Phân đoạn bốn: Giải minh về 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới và 12 nhân duyên và 4 Thánh đế.
5. Phân đoạn năm: Giới thiệu về năng lực của Tuệ giác Vô thượng.
6. Phân đoạn sáu: Xác chứng về Tuệ giác Vô thượng qua ba đời chư Phật.
7. Phân đoạn bảy: Minh thị về sức thần của Tuệ giác Vô thượng đối với sự diệt trừ khổ đau hay thăng chứng Niết bàn.
Khi nói 5 uẩn là Không, thì 5 uẩn phải được quan sát qua ba phạm trù: (1) Tướng (Laksna) của 5 uẩn, (2) Sinh diệt của 5 uẩn, và (3) Chân như của 5 uẩn.
a) Tướng của năm uẩn:
"Về Sắc uẩn (Rùpa-skandha) thì rốt ráo không kiên cố vì sắc có vô số kẽ hở, đường tơ, ví như bọt nổi, bóng chìm. Thọ uẩn (Vedàna-skandha) như tên xa, gió lướt, như điện chớp, sinh diệt trong từng khoảnh khắc (sát na). Tưởng uẩn (Samjnà-skandha) như quáng nắng, chẳng thực có suối nguồn, do khát ái khởi lên, do ngôn ngữ biểu đạt. Hành uẩn (Samskrta-skandha) như cây chuối lột bẹ, mất dần đến cốt tủy. Và Thức uẩn (Vijnàna-skandha) như huyễn mộng, trong đó phô trần mọi sinh hoạt của đời sống hư cấu giả tạo".
Ở đây, Đức Phật dùng hình ảnh rất cụ thể, gần gũi nhất để nói lên một sự thật là vạn sự, vạn vật đều vô thường. Như vậy, năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức (thể chất, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức) đều luôn luôn thay đổi, biến chuyển rất nhanh chóng, mà thuật ngữ Phật giáo gọi là sát-na. Như những tế bào trong cơ thể sinh ra và chết đi liên tục, con người hết vui lại buồn, khi lo viêc này, khi nghĩ việc khác, tâm ý thay đổi luôn luôn và nhận thức hoạt động cũng không ngừng. Đó là sự vô thường của con người nhìn dưới dạng cấu hợp của năm uẩn. Suy rộng ra vạn sự, vạn vật cũng đều như thế.
Soi sáng tướng của năm uần là vô thường, được nói đến ở đây như một phép quán để đạt đến giải thoát.
b) Sinh diệt của năm uẩn:
"Bồ Tát như thật biết rằng, sinh không từ đâu đến, tử chẳng đi về đâu. Thật thì chẳng có đến, có đi, nhưng nương tựa, hợp xướng với nhân duyên nên nó sinh diệt không ngừng trong từng khoảnh khắc".
Thực tánh của vạn pháp là vô ngã, nghĩa là mọi sự vật và hiện tượng đều không tự có. Do vì không tự có nên không có tự tánh riêng biệt, mà là duyên sanh vô ngã, tức "cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không", mọi sự vật và hiện tượng đều tương quan tương duyên với nhau, chứ không tồn tại độc lập. Ví dụ con người có mặt là do năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành và thức hợp lại. Khi năm uẩn phân tán thì con người không còn nữa.
Như vậy soi sáng sinh diệt của năm uẩn hay con người hay vạn pháp là vô ngã như một phép quán để đạt đến giác ngộ và giải thoát.
c) Chân như của năm uẩn:
"Bồ Tát như thật biết rằng, năm uẩn vốn không sinh, không diệt, không đến, không đi, không tăng, không giảm, không hư vọng biến dị, nó thường như chính nó nên gọi là Chân như".
Do tất cả chúng sinh vì mê bản thể chân tâm thanh tịnh của mình nên vọng niệm cho rằng tất cả các cảnh là thật, khởi ra tham sân si, tạo đủ các nghiệp, nên phải sinh tử luân hồi rồi chịu đủ điều khổ sở. Bồ tát dùng trí tuệ Bát Nhã thấy rõ như thật các pháp, thế giới chúng sinh đều Không, do vậy Bồ tát không còn các khổ do vô minh vọng tưởng gây ra, nên vượt qua tất cả các khổ ách.
Soi sáng chân như của năm uẩn là Không nên biết rằng tự tánh của Không là không có vị trí trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệm được, chưa bao giờ từng sinh khởi..., Không như thế tức là thể tánh bình đẳng, không phân biệt, là tự tánh chân như của thực tại. Không ở đây chính là không trong văn học Bát Nhã - và thuật ngữ Phật giáo gọi là Tánh Không.
Đó chính là nội dung của giáo nghĩa Tánh không Bát nhã trong Bát Nhã Tâm Kinh. Với giáo nghĩa Tánh không, thuyết vô ngã như một trong hai hệ luận của duyên khởi, đã được triển khai, thuyết minh đến mức tận cùng của nó. Vì thế có thể nói học thuyết Tánh không chính là Vô Ngã và Vô thường vậy.
7. Linh ngữ: “ Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” được tuyên thuyết để kết thúc Bát Nhã tâm kinh được viết bằng tiếng Việt như thế nào.
8. Năm luận đề của kinh Trái Tim.
Chúng tôi thấy câu hỏi này có vấn đề nên đề nghị sửa lại câu hỏi số 8 - Nêu luận đề của kinh Trái Tim, vì nghĩ rằng chắc do sai sót nào đó. Vì đã rất cố gắng song chúng tôi không tìm thấy ở kinh Trái tim có nhiều hơn một luận đề, mặc dù rất có nhiều luận điểm đề cập đến giáo lý của đức Phật. Vì:
- Luận đề nói dễ hiểu là đầu đề để bàn luận.
- Luận đề (thesis statement) được trình bày ở đoạn văn đầu tiên của bài luận. Các đoạn văn tiếp theo được dùng để minh chứng cho luận đề ấy. Ngoài ra, luận đề phải là một câu khẳng định hoàn chỉnh.
- Liên hệ với Tài liệu Kinh Trái Tim - Thích Tâm Thiện có thấy ghi "nội dung của kinh Trái Tim dài không quá 300 chữ, được mở đầu bằng luận đề: "Khi tiến sâu vào nguồn mạch của tuệ giác vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách". Và nội dung chính của nó là triển khai luận đề: "Soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không" qua sự phân tích tiến trình của 5 uẩn (hợp thể), 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên và 4 Thánh đế.
- Và xem Phân tích cấu trúc của kinh Trái Tim - Phân đoạn 1 (theo Tài liệu Kinh Trái Tim - Thích Tâm Thiện) dưới đây, và cũng là câu trả lời hợp lý và chính xác nếu câu hỏi được sửa thành:
"Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách".
3. Cơ sở quan sát: Ở đây cơ sở dùng để quan sát là trí tuệ Bát nhã (Tuệ giác Vô thượng), hay trí tuệ thoát ly nhị nguyên; trực nhận thực tại như là chính nó. Kinh gọi là trí tuệ bên kia bờ : Trí tuệ (Prajnà), Bên kia bờ (pàramità).
4. Tác năng của trí tuệ quan sát: Tác năng của trí tuệ quan sát trước hết được xác định ở hai điểm ngay trong câu luận đề của kinh:
a) "Hành thâm Bát nhã": nghĩa là tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng; và
b) "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không": nghĩa là soi sáng như thực rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không. Nếu thực hành được hai điểm then chốt này thì lập tức "liền thoát ly mọi khổ ách".
Như vậy, tác năng của trí tuệ quan sát ở đây là tác năng giải thoát cho tự thân và tha nhân.
"Kim Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật Kinh": Trí tuệ siêu việt đọan trừ các lậu hoặc
- Kinh ở đây là lời dạy của Đức Phật
- Kim Cang: Một khoáng chất có tích cách cứng rắn, vật khác không thể đánh bể được nó, ngược lại nó có năng lực đánh bể mọi vật. Tính cứng rắn và sắc bén ấy xưa nay có sẵn, chứ không phải do rèn luyện.
- Bát Nhã là phiên âm tiếng Phạn, có nghĩa trí tuệ nội tâm
- Ba-La-Mật, cũng là phiên âm tiếng Phạn, có nghĩa đáo bỉ ngạn, tức chỉ trí tuệ được phát triển một cách tròn đầy.
Bát-Nhã Ba-La-Mật cũng là một độ trong Lục độ.
2. Sáu pháp chứng tín trong đoạn thứ nhất của kinh Kim Cang
Theo thông lệ, trong các kinh Đại thừa đều có nói đến lục chủng chứng tín hay lục chủng thành tựu. Đây là sáu điều kiện để xác chứng niềm tin cho người nghe (lục chủng chứng tín), hoặc sáu điều kiện để thành tựu niềm tin (lục chủng thành tựu). Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát sáu điều kiện này trong đoạn kinh thứ nhất của kinh Kim Cang.
2. Ngã văn là văn thành tựu: Ngã văn là tiêu biểu cho điều thứ hai trong sáu pháp chứng tín, có nghĩa là A Nan trực tiếp được nghe Phật thuyết giảng về Kim Cang Bát-Nhã.
3. Nhất thời là thời thành tựu: Nó tiêu biểu cho điều thứ ba trong sáu pháp chứng tín, tức chỉ thời điểm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng Kim Cang Bát-Nhã.
4. Phật là chủ thành tựu: Phật là người chủ tọa buổi thuyết giảng về Kim Cang Bát-Nhã
5. Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên là xứ thành tựu: Đây là điều thứ năm trong sáu pháp chứng tín, nói về địa điểm Phật thuyết giảng Kim Cang Bát-Nhã. Địa điểm gồm chung và riêng, Xá Vệ là nói chung, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên là nói riêng.
6. Chúng đại Tỳ-kheo là chúng thành tựu: Nói về số cử tọa đồng ở Pháp hội (Tỳ-kheo, Bồ-tát)
3. Mục đích Phật thuyết kinh Kim Cang là gì?
Do sự thưa thỉnh của Tôn giả Tu Bồ Đề, Đức Phật nói Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật nhằm mục đích chỉ bày phương pháp an trụ chơn tâm và hàng phục vọng tâm cho bất cứ ai phát Bồ đề tâm, tức là phát tâm tu tập để thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.
- Hàng phục vọng tâm: Đức Phật trả lời về hàng phục tâm trước, vì tâm phải hàng phục, trước khi tâm có thể trú. Hàng phục tâm bằng cách không chấp (vô chấp) ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Xả bỏ tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả là ý niệm rất nòng cốt của kinh Kim Cang, và được lập đi lập lại rất nhiều lần trong kinh (20 lần, khi kinh chỉ có 32 đoạn) nhằm giúp chúng ta tập trung năng lực khi tu tập.
- An trụ chơn tâm: Phật dạy: "Như lời dạy mà trụ". Và lời dạy là "ưng vô sở trụ" (nên không có chỗ trụ). Vậy có nghĩa là, trụ tâm bằng cách không trụ vào đâu cả, không chấp vào đâu cả. Tức là, nếu không trụ (chấp) tâm vào đâu cả thì tâm sẽ được trụ (bình yên).
Như vây, hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm thực ra chỉ là một việc: vô chấp - ưng vô sở trụ
An trụ và hàng phục là hai tác dụng lớn của nội tâm. Và đây cũng là hai vấn đề chủ yếu của kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật mà bất cứ ai phát tâm tu tập theo tinh thần Phật giáo Đại thừa không thể không tham học để thấu hiểu nghĩa lý, nhằm hành trì để đạt tới cứu cánh của sự tu học.
4. Ý nghĩa phân đoạn thứ 3 của kinh: Đại thừa chánh tôn
Theo Tài liệu các Anh chị học được giải thích như sau:
Đức phật dạy: Muốn tựu thành Phật tuệ ở nội tâm "hãy hướng dẫn 9 loại chúng sanh vào Vô dư Niết bàn”. Chúng sanh ở đây chỉ các trạng thái tâm lý con người, thể hiện tác dụng suy nghĩ và vin bắt nội tâm con người. Am hiểu diệu nghĩa nội tâm chúng sanh như vậy rồi, chúng ta thấy, Phật dạy chúng ta hướng dẫn chúng sanh vào "Vô dư Niết bàn" là việc mà chúng ta có thể làm được.
Bằng cách yên lặng từ nội tâm, củ soát mọi sinh động từ nội tâm, mỗi một móng niệm ta liền thấy đó là bóng dáng của nội tâm, nó đang vin bắt bóng dáng của ngoại trần, chúng sanh đương khởi trong tiến trình tương giao, tương tiếp, chứ không có chủ thể, chúng duyên sanh giả hiện, chứ không có tính trường tồn. Vậy ta hãy đưa chúng về nguyên xứ Niết bàn của chúng, bằng cách chấm dứt sự vin bắt từ nội tâm. Bây giờ tất cả mọi sự suy tư phân biệt của nội tâm đều trở về cội nguồn của tĩnh lặng. Đó là Vô dư Niết bàn.
(2) Tứ đại: đất nước gió lửa (four tanmatras: earth, water, wind, fire).
(3) Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (five skandas: form, feeling, perception, formation, consciousness).
(4) Ba độc: Tham lam, sân hận, si mê (three poisons: greed, anger, ignorance).
(5) Theo Tương Ưng Bộ Kinh, phẩm Tầm Cầu, có 4 loại chấp thủ: dục chấp thủ (grasping onto sensual pleasure), kiến chấp thủ (grasping onto views), giới cấm chấp thủ (grasping onto rules and precepts), ngã luận chấp thủ (grasping onto a doctrine about the self).
(6) Khổ là dukkha (Pali), duhkha (S.), suffering.
(7) Đây là câu đầu tiên của Bát Nhã Tâm Kinh: Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
(8) Kinh Kim Cang chỉ có 32 đoạn, nhưng cụm từ “tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả” (và các cụm tương đương) được lặp đi lặp lại 20 lần.
Theo Tài liệu các Anh chị học:
Phục thứ Tu-Bồ-Đề, Bồ-tát ư pháp ưng vô sở trú hành ư bố thí, sở vị bất trú sắc bố thí, bất trú thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu-Bồ-Đề, Bồ-tát ưng như thị bố thí, bất trú ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ-tát bất trú tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương. Tu-Bồ-Đề, ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lương phủ? Phất dã Thế Tôn! Tu-Bồ-Đề, Nam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư lương phủ? Phất dã Thế Tôn! Tu-Bồ-Đề, Bồ-tát vô trú tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị bất khả tư lương. Tu-Bồ-Đề, Bồ-tát đản ưng như sở giáo trú.
Diễn nghĩa:
- Không thể lượng được, Kính bạch Thế Tôn!
- Chín phương còn lại hư không trong ấy sánh lượng được chăng?
- Không thể lượng được, Kính bạch Thế Tôn!
- Này Tu-Bồ-Đề! Bồ tát vô trú. Thực hiện bố thí phước đức cũng vậy. Bồ Tát hãy nên như lời Phật dạy mà trú.
Để dễ hiểu, xin cung cấp phần giải thích của Tác giả Trần Đình Hoành như sau:
(10) “Trụ” trong “ưng vô sở trụ” có hai nghĩa. Một là động từ “đứng cố định” hay “đứng chắc chắn.” Hai là tĩnh từ “an trụ”, tức là được bình yên, vững chãi. Tại điểm này, trụ đang có nghĩa là động từ, vì câu hỏi (và câu trả lời) nhắm vào hành động: “Tôi phải trụ tâm tôi cách nào?”
(11) Six dusts: color, sound, fragrance, taste, object of touch, dharma.
(12) Vì bất kỳ “thấy biết” nào cũng là một ý niệm trong tâm, mà tướng (hay tưởng, samjna) là ý niệm. (13) Nhưng dĩ nhiên là Bồ tát cũng không thể trụ vào phước đức mà bố thí. Phước đức cũng chỉ là tướng. Nếu Bồ tát chấp vào phước đức, thì bố thí không còn phước đức. Vì Bồ tát không trụ vào phước đức để bố thí, cho nên mới được vô lượng phước đức. Xin xem Đoạn 8, nói về phước đức.
(14) Xin xem 2 nghĩa của chữ “trụ” trong chú thích 10.
- Niết-bàn Hữu dư (Niết-bàn chưa hoàn toàn): Trạng thái tâm lý giải thoát chưa hoàn toàn, không còn phiền não chướng nhưng vẫn còn rơi rớt lại sở tri chướng, còn thân ngũ uẩn, còn chịu quả báo sanh tử song ngã chấp đã được điều phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc như chúng sanh
- Niết-bàn Vô dư (Niết-bàn hoàn toàn): Trạng thái tâm lý giải thoát hoàn toàn, không còn phiền não chướng, sở tri chướng; thật sự không còn chấp trước 4 tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả; sự sanh tử luân hồi không còn ràng buộc, nên được tự tại giải thoát ra ngoài 3 cõi: Dục, Sắc và Vô sắc giới.
7. Đại ý chính của phân đoạn thứ 12 của kinh
Đại ý chính của phân đoạn thứ 12: "Tôn trọng Chánh giáo": Khích lệ tôn trọng, thọ trì kinh Kim Cang để khai triển Trí tuệ Bát-Nhã.
Trí tuệ như Kim Cang hướng dẫn chúng ta trên lộ trình giác ngộ và giải thoát nên nó được tôn quý. Tôn quý là quý cái giá trị của giác ngộ, của giải thoát ấy. Vì thế, người nào am hiểu Kim Cang Bát-Nhã, sống với tinh thần Kim Cang Bát-Nhã, ta cũng quý trọng.
8. Trong phân đoạn thứ 26 của kinh Kim Cang có bài kệ của Phật. Ghi lại bài kệ ấy và Việt dịch
Đoạn kinh thứ 26 "Pháp thân phi tướng" có bài kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai
Việt dịch:
Nương sắc diện thấy Ta
Theo âm thanh thấy Ta
Người ấy không gặp Phật
Vì hành động theo tà
Tham khảo bản dịch khác (sát nghĩa và hay hơn)
Nếu lấy sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy theo tà đạo
Không thể thấy Như Lai
9. Đoạn kinh thứ 32 của kinh: "Ứng hóa phi chơn". Phật dạy Tu Bồ Đề bài kệ 20 chữ. Ghi lại bài kệ ấy và Việt dịch.
Kết thúc thời kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, đức Phật thuyết một bài kệ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán
Việt dịch:
Các pháp hữu vi
Mộng huyễn thật gì
Sanh diệt rất nhanh
Quán vậy ắt thành
Tham khảo bản dịch khác (sát nghĩa và hay hơn)
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh,
Như sương cũng như chớp
Nên quán xét như vậy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét